Văn khấn cầu siêu cho thai nhi tại nhà chuẩn nhất

Cập nhật: 11/07/2024 Sưu tầm
Cách cúng cầu siêu cho thai nhi tại nhà

Văn khấn cầu siêu cho thai nhi tại nhà hay cúng cầu siêu cho thai nhi là một trong những lễ cúng được nhiều người quan tâm trọng dịp rằm tháng 7. Hôm nay, VnAsk.com mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây để biết và hiểu rõ hơn về kinh cầu siêu cho thai nhi tại nhà nhé.

Văn khấn cầu siêu cho thai nhi tại nhà

1.

(Quỳ, chắp tay)

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!

Chúng con kính bạch chư Phật, chư Bồ Tát, cùng chư Thánh Hiền Tăng chứng minh và gia hộ cho chúng con.
Đệ tử con tên là:... ở tại địa chỉ...

Hôm nay chúng con xin tác lễ theo nghi thức làm lễ tại nhà trước khi tham dự lễ cầu siêu.

Chúng con xin thỉnh mời chư Thiên, chư Thần Linh về đây ủng hộ cho pháp hội tu tập của chúng con.
Chúng con xin nương oai lực Tam Bảo, chúng con xin nhất tâm thỉnh mời

- Thỉnh hương linh:
+ Ngày tu thứ nhất:
hương linh (đọc tên mục hương linh cầu siêu)... được về đây tu với chúng con[1] và vào ngày… tháng… năm… chúng con xin thỉnh chư vị về dự lễ cầu siêu tại chùa Ba Vàng và hôm đó chúng con xin (vì nhân duyên… nên không) tham gia lễ cầu siêu theo hình thức trực tiếp/trực tuyến.
Chúng con lại xin thỉnh mời các hương linh (tùy duyên mời)… chúng con xin chư vị hoan hỷ cùng về đây tu với chúng con, nhưng chúng con không thỉnh chư vị về lễ cầu siêu tại chùa Ba Vàng.
+ Ngày tu tiếp theo:
Các chúng trong cõi tâm linh trong các khóa lễ trước đã bạch thỉnh, được về đây cùng tu cũng như ủng hộ cho pháp hội [nếu thỉnh thêm mục tâm linh thì bạch: Chúng con xin thỉnh mời (đọc tên mục hương linh cầu siêu)... được về đây tu với chúng con và vào ngày… tháng… năm… chúng con xin thỉnh chư vị về dự lễ cầu siêu tại chùa Ba Vàng; và chúng con cũng xin thỉnh mời chư vị… được về đây tu tập theo nghi thức này nhưng không thỉnh về đàn cầu siêu tại chùa:…].

- Phát tâm công đức (nếu không phát tâm thì không đọc phần này; phát tâm hồi hướng cho mục nào, thì đọc mục đó)
+ Phát tâm tại khóa lễ: Chúng con xin phát tâm công đức (thêm) về Tam Bảo, để hồi hướng phước cho tất cả chư vị trong cõi tâm linh mà đã được thỉnh mời về khóa lễ này là…
+ Phát tâm về lễ cầu siêu tại chùa: Chúng con xin phát tâm công đức (thêm/tổng số) về Tam Bảo, để hồi hướng phước về đàn lễ cầu siêu tại chùa Ba Vàng cho [chư Thiên, chư Thần Linh là…; (đọc tên mục hương linh cầu siêu)... là…

Giờ này, chúng con xin thỉnh tất cả chư vị trong cõi tâm linh cùng với chúng con tu tập (nếu cúng thực thì đọc: Và thọ lễ vật thực hiến cúng của gia đình.)

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 chuông. 1 lễ)

Kinh cầu siêu cho thai nhi tại nhà

2.

Ngồi. Pháp khí: mõ, chuông. Ấn vào tên bài. Tụng 1 bài kinh/1 thời khóa, đọc lần lượt theo thứ tự đến hết rồi vòng lại.

Bài kinh số 1: Kinh Vu Lan Bồn

Ta từng nghe lời tạc như vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá Vệ thành Kỳ thụ viên trung,
Mục Kiều Liên quỳ bạch Phật rằng:
Con dùng thần lực kiếm tìm mẫu thân
Thấy đọa lạc trong loài ngạ quỷ
Thân hình gầy tiều tụy vô cùng,
Con liền khất thực thức ăn
Dâng lên cúng mẹ đỡ cơn đói lòng.
Mắt nhìn con mẫu thân mừng tủi,
Đưa tay ra bốc vội cơm canh
Đột nhiên lửa cháy bùng bùng
Cơm canh kia đã biến thành đống tro.
Mẹ gào thét trong cơn đói khát.
Xin Thế Tôn chỉ dạy cho con
Làm sao cứu được mẫu thân
Cùng loài quỷ đói thoát vòng khổ đau.
Lòng từ mẫn ân cần Phật dạy:
Vì mẹ Ông gốc tội rất sâu
Khi xưa sống ở trên đời
Làm điều gian ác đọa đày bầy tôi
Lại ham thích làm điều tà kiến
Sát hại nhiều vô số chúng sinh
Làm đàn lễ cúng linh đình,
Không tin nhân quả, nặng lời chúng Tăng.
Lòng hiếu thảo của Ông dầu lớn,
Cùng thần lực đệ nhất thần thông
Cũng không cứu nổi mẹ Ông,
Hoặc kêu cầu tám phương ba cõi
Các thầy tà ngoại đạo nhân thiên
Lập đàn cúng tế ngày đêm
Cùng nhau hợp sức kêu cầu khấn van
Thì mẹ Ông cũng không thoát khổ.
Ta nay đây truyền dạy Mục Liên
Và người con hiếu chúng sinh sau này
Muốn mà báo hiếu mẹ cha
Ba tháng hạ vào kỳ tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này,
Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Đồ ăn thức uống trái cây
Thuốc men trị bệnh áo y đủ đầy
Tứ sự cúng dâng lên Tăng chúng
Phước phần này vong giả siêu sinh
Về nơi cảnh giới an lành
Tu theo Phật Pháp thoát vòng trầm luân.
Lại thêm phần phước cho cha mẹ
Hiện ở đời mạnh khỏe an nhàn.
Mục Liên Ông hãy dạy răn
Cho chúng sinh rõ phước Tăng rất dày
Ba tháng hạ Thánh Tăng đầy đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ hội về,
Như người thiền định sơn khê,
Tránh điều phiền não chăm về Thiền-na.
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh.
Hoặc người thọ hạ kinh hành,
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng.
Hoặc người được Lục thông tấn phát,
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn,
Hoặc chư Bồ-tát mười phương,
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh,
Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh,
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm.
Tất cả các bậc Thánh, phàm,
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm Lục hòa.
Phật lại dạy mười phương Tăng chúng,
Khi thọ nhận tứ sự cúng dâng,
Phải cầu chú nguyện đủ đầy
Cho người thí chủ mọi điều tốt tươi
Khi thọ dụng, nên an vật thực,
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung.
Chư Tăng chú nguyện viên dung,
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,
Mục Liên cùng Bồ-tát chư Tăng,
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng,
Nhờ ân Phật tổ chúng sinh thoát nàn.
Mục Liên mẫu cũng nương pháp ấy,
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan.
Mục Liên bạch với Phật rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn.
Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo,
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra.
Phật lại dạy hai hàng Tăng chúng
Sau này dùng diệu pháp Lan Bồn
Độ cho cha mẹ, chúng sinh
Thoát vòng khổ ải khỏi đàng quỷ ma.
Thiện nam tử, Tỳ-kheo nam nữ,
Hay Quốc vương, Thái tử, Ðại thần,
Tam công, Tể tướng, Bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần.
Vì lòng hiếu thảo ân thâm
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,
Dâng cúng dường chư Phật, chư Tăng.
Ấy là báo đáp thù ân,
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu,
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ,
Mới phải là Thích tử Thiền môn.
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn,
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan.
Mục Liên với bốn ban Phật tử,
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
Trước là trả nghĩa sanh thành,
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
NAM MÔ ÐẠI HIẾU MỤC KIỀU LIÊN BỒ TÁT. (3 lần)

Bài kinh số 2: Kinh Địa Tạng Phẩm Bảy: Lợi Ích Kẻ Còn Người Mất

1. Khuyên Tu Thánh Đạo
Lúc đó Ngài Địa Tạng đại Bồ Tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù sanh tâm động niệm không chi là chẳng phải tội.
Nếu gặp những việc về pháp sự lợi lành phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu. Còn hoặc khi gặp duyên sự bạo ác chẳng lành lại lần lần thêm lớn: Những hạng người trên đó như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy càng nặng thêm lần, càng khốn đốn thêm lần, chân đạp lún lút sâu.
Những người đó hoặc gặp hàng thiện tri thức đội giùm đá bớt cho, hoặc là đội giùm hết cả, vì hàng thiện tri thức đó có sức rất khỏe mạnh lại dìu đỡ người ấy khuyên gắng làm cho người ấy mạnh chân lên.
Nếu khi ra khỏi bùn lầy đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, đừng có đi vào đó nữa.
Bạch đức Thế Tôn! Những chúng sanh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.
Đến khi những chúng sanh quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời cha mẹ cùng thân quyến vì người đó mà tu tạo phước lành để giúp tiền đồ cho người đó.
Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc Tôn Kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng hình tượng của các vị Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của người sắp mạng chung, hoặc là nơi bổn thức nghe biết.
Cứ theo nghiệp ác của người đó đã gây tạo, suy tính đến quả báo, thời đáng lẽ người đó phải bị đọa vào ác đạo, song nhờ thân quyến vì người đó mà tu nhân duyên Thánh đạo, cho nên các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người đó đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc sanh trong loài người hưởng lấy nhiều sự rất vui sướng, mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích.
Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước đức Phật Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn v.v... mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, ngày lâm chung kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỷ, Thần, cầu cúng ma quái. Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi.
Giả sử người chết đó hoặc là đời trước hay đời hiện tại vừa rồi, đã chứng đặng phần Thánh quả sẽ sanh vào cõi Trời, cõi người, nhưng vì lúc lâm chung bị hàng thân thuộc gây tạo những nghiệp nhơn không lành, cũng làm cho người chết đó mắc lấy ương lụy phải đối biện, chậm sanh vào chốn lành.
Huống gì là người kia chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành, đều theo ác nghiệp của họ đã gây tạo mà tự phải bị sa đọa vào ác đạo. Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm! Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.
Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, ở nơi trong giáo pháp của Phật, nếu có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều tự mình được lợi ích cả.

2. Trưởng Giả Bạch Hỏi
Khi Ngài Địa Tạng nói lời như thế xong, trong pháp hội có một vị Trưởng Giả tên là Đại Biện.
Ông Trưởng Giả từ lâu đã chứng quả vô sanh hiện thân Trưởng Giả để hóa độ chúng sanh trong mười phương, ông chắp tay cung kính mà thưa hỏi Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng:
“Thưa Đại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có chúng sanh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc kẻ lớn người nhỏ, vì người chết đó mà tu các công đức, cho đến thiết trai cúng dường, làm những phước lành, thời người chết đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng giải thoát chăng?”

3. Kẻ Còn, Người Mất Đều Được Lợi
Ngài Địa Tạng Bồ Tát đáp rằng: “Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Đức Phật mà nói lược về việc đó.
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một Đức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả.
Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.
Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.
Con Quỷ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở các ty sở để biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Trong lúc mà chưa biết chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác đạo.
Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho. Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Người chết đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.
Còn nếu là kẻ phạm năm tội Vô Gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp.
Lại vầy nữa, này ông Trưởng Giả! Sau khi những chúng sanh gây phạm tội nghiệp như thế mạng chung, hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp thêm phước lành cho người chết đó.
Thời khi sắm sửa chưa rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau v.v... đổ vãi ra nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dâng cúng cho Phật cùng Tăng thời chẳng được ăn trước.
Nếu như ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thời người chết đó trọn không được mảy phước nào cả.
Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dâng cúng cho Phật cùng Tăng, thời trong bảy phần công đức người chết hưởng được một phần.
Nầy ông Trưởng Giả! Vì thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người thân quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường, chí tâm cầu khẩn thời những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả”.
Lúc Ngài Địa Tạng nói lời này, tại cung trời Đao Lợi có số nghìn muôn ức na do tha Quỷ Thần cõi Diêm Phù Đề, đều phát tâm Bồ Đề vô lượng.
Ông Trưởng Giả Đại Biện vui mừng vâng lời dạy, làm lễ mà lui ra.

(Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Phẩm thứ bảy. Lợi Ích Cả Kẻ Còn Người Mất, tr.101-112, Việt dịch: Hòa thượng Thích Minh Châu, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, PL.2554 - DL.2010)

Bài kinh số 3: Kinh Tôn Giả Xá Lợi Phất Cứu Mẹ Tiền Kiếp

Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại vườn Trúc Lâm (Veluvana).
Một hôm, các Tôn giả Xá-lợi-phất (Sariputta), Đại Mục-kiền-liên (Mahà-Moggallàna), A-na-luật-đà (Anirudha) và Kiếp-tân-na (Kappina) đang trú tại một nơi trong khu rừng không xa thành Vương Xá.
Bấy giờ ở Ba-la-nại có một Bà-la-môn đại phú gia, vốn là đại thí chủ đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đám dân nghèo, du sĩ, lữ khách, hành khất; vị ấy cúng dường bố thí thực phẩm, y phục, sàng tọa và nhiều vật dụng khác.
Vị ấy điều hành sinh hoạt của mình và bố thí tùy theo cơ hội phù hợp với các khách vãng lai, đủ mọi vật cần thiết cho tuyến đường trường.
Vị ấy thường dặn bà vợ:
- Này bà, đừng quên việc bố thí này, bà phải chuyên tâm chăm lo bố thí như đã được định đoạt.
Bà vợ đồng ý, nhưng khi ông ra đi, bà liền cắt giảm tục lệ cúng dường chư Tăng. Hơn nữa, đối với đám lữ khách đến xin cư trú, bà chỉ vào túp lều xiêu vẹo bị bỏ phế đằng sau nhà và bảo họ:
- Hãy ở lại đó.
Khi đám du sĩ đến xin thực phẩm nước uống và các thức khác, bà thường buông lời nguyền rủa, kể ra cho từng người bất cứ vật gì ô uế đáng ghê tởm và bảo:
- Hãy ăn phân đi! Hãy uống nước tiểu đi! Hãy uống máu đi! Hãy ăn óc mẹ ngươi đi!
Do nghiệp lực trói buộc, lúc từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu nỗi khốn cùng phù hợp với ác hạnh của bà. Khi nhớ lại đám quyến thuộc trong tiền kiếp, bà ước mong đến gần Tôn giả Xá-lợi-phất và bà liền đến nơi ngài cư trú.
Các vị thổ thần trong nhà ngài không chấp nhận cho nữ quỷ vào. Do đó nữ quỷ nói như sau:
- Trong kiếp thứ năm kể về trước, ta là mẹ của Tôn giả Trưởng lão Xá-lợi-phất, hãy cho phép ta vào cửa để thăm ngài.
Vừa nghe vậy, chư thần liền cho phép nữ quỷ.
Khi nữ quỷ vào trong, nữ quỷ đứng cuối am thất và thấy ngài. Chợt trông thấy nữ quỷ, ngài động lòng từ bi liền hỏi nữ quỷ:
Trần truồng và xấu xí hình dung, gầy guộc và thân thể nổi gân, ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ, người là ai, hiện đến đây chăng?
Nữ ngạ quỷ đáp: Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài, trong nhiều kiếp trước ở trên đời, tái sanh cảnh giới loài ma quỷ, đói khát giày vò mãi chẳng thôi. Những thứ gì nôn tháo, bọt mồm, nước mũi tuôn ra, nước dãi đờm, chất mỡ rỉ ra từ xác chết. Bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn. Máu chảy ra từ các vết thương, hoặc từ đầu, mũi bị cưa ngang, những gì cấu uế trong nam nữ, đói lã, ta đều phải lấy ăn. Máu mủ ta ăn của các loài, và luôn máu mủ của con người, không nơi cư trú, không nhà cửa, nằm chiếc giường đen nghĩa địa hoài. Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường, vì ta, ngài bố thí ban ân, để cho ta hưởng phần công đức, giải thoát ta từ máu, mủ, phân.
Ngày hôm sau, Tôn giả Xá-lợi-phất cùng ba vị Tỷ-kheo kia khất thực trong thành Vương Xá, đến tận cung Đại vương Tần-bà-sa-la (Bimbisàra).
Nhà vua hỏi:
- Chư Tôn giả, tại sao chư vị đến đây?
Tôn giả Mục-kiền-liên trình vua những việc đã xảy ra. Nhà vua phán:
- Chư Tôn giả, trẫm chấp thuận việc ấy.
Nhà vua bảo chư vị ra đi, triệu vị cận thần vào và truyền lệnh:
- Hãy xây trong khu rừng của thành này bốn am thất được cung cấp đủ bóng mát và nước chảy.
Khi các am thất đã được hoàn tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường Trưởng lão Xá-lợi-phất. Sau đó trưởng lão Xá-lợi-phất dâng tặng lễ vật này lên Tăng chúng khắp thế gian do đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.
Nữ ngạ quỷ hưởng các lợi lạc này, liền được tái sanh lên thiên giới làm thiên nữ với đầy đủ mọi thứ cần dùng, đồ ăn thức uống áo quần xiêm y, cùng dung sắc chói sáng lung linh.
Một hôm Thiên nữ đến gần Tôn giả Mục-kiền-liên và kể cho vị ấy nghe tất cả mọi chi tiết trong hai kiếp tái sinh làm ngạ quỷ và Thiên nữ.
Sau đó thiên nữ dâng lời kính lễ:
Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,
Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan,
Bốn phương con chẳng hề kinh hãi,
Tôn giả chính là bậc xót thương
Khắp cõi trần gian, thưa Giác giả,
Con về đây kính lễ tôn nhan.

(Trích soạn từ: Tiểu Bộ kinh, Phẩm II. Phẩm Ubbarì, Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta)

Tìm hiểu về kinh cầu siêu vong linh thai nhi

Bài kinh số 4: Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường

Bậc Đạo sư kể chuyện này trong khi đang trú tại thành Vương xá (Rājagaha).
Chín mươi hai kiếp về trước, có một kinh thành tên là Ka-si-pu-ri (Kāsipurī). Vua Jay-a-se-na (Jayasena) ngự trị nơi ấy có chánh hậu là Si-ri-ma (Sīrimā), vương tử Phất Sa (Phussa) chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, tức là đức Cổ Phật thứ mười tám sau đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṇkāra).

Bấy giờ, Đại Vương Jay-a-se-na sinh tâm ngã mạn, suy nghĩ: “Vì vương tử của ta sinh ra đời làm đức Phật, đã thành tựu đại sự xuất thế, chỉ riêng ta có Phật, chỉ riêng ta có Pháp, chỉ riêng ta có Tăng chúng”. Do đó nhà vua luôn luôn hầu cận bên đức Phật và không dành cơ hội cho kẻ khác.

Ba hoàng đệ của đức Thế Tôn ấy do bà mẹ khác sinh ra, bèn suy nghĩ: “Quả thật chư Phật ra đời vì lợi ích của quần sinh khắp thế gian này, chứ không phải vì riêng một ai. Nay phụ vương ta không dành cơ hội cho người khác. Làm thế nào ta có thể phụng sự đức Thế Tôn và Tăng chúng?
Nào chúng ta hãy thi hành một chiến thuật”.
Thế là chư vị gây rối tại vùng biên địa. Sau đó, khi nhà vua nghe tin về vụ rối loạn này, liền phái ba vương tử đi bình định biên thùy. Ba vị tuân lệnh và khi trở về, nhà vua hài lòng ban chư vị một điều ước, phán bảo:
– Hãy chọn thứ gì các vương nhi muốn.

Ba vị tâu:
– Chúng thần nhi ước mong hầu cận đức Thế Tôn.

Nhà vua từ chối, phán:
– Hãy chọn thứ khác.

Ba vị tâu:
– Chúng thần nhi không màng thứ gì khác cả.

Nhà vua lại phán:
– Thôi được, các vương nhi có quyền chọn theo ý muốn.

Ba vị đến gần đức Thế Tôn và thưa:
– Bạch Thế Tôn, chúng đệ tử ước mong phụng sự đức Thế Tôn ba tháng. Xin đức Thế Tôn hoan hỷ an cư ba tháng mưa với chúng đệ tử.

Đức Thế Tôn chấp thuận. Ba vị hoàng tử tự thân hành gửi một thông điệp đến cho người được chỉ định trông coi tỉnh nọ, bảo: “Trong suốt ba tháng này, chúng ta cần phục vụ đức Thế Tôn, bắt đầu bằng cách xây một tinh xá, và cung cấp đủ mọi thứ cần thiết”.

Sau đó chư vị hết lòng cung kính phục vụ đức Thế Tôn cùng Tăng chúng. Khi các viên quan cai trị tỉnh này đã cúng dường tinh xá xong, các vị chấp hành việc an cư mùa mưa ấy. Một vị thủ kho hoàng gia, con trai một gia chủ, là người mộ đạo cùng với vợ đã tìm được niềm tin, vị ấy trân trọng cúng dường Tăng chúng với đức Phật làm thượng thủ. Người được chỉ định cai quản tỉnh này theo gương vị kia cùng với mười một ngàn dân đem các vật đến cúng dường với tất cả lòng thành kính.

Vào dịp ấy, có một số người bất mãn trong lòng, sau khi ngăn cản những vật đóng góp, chính họ lại ăn các phẩm vật và nổi lửa đốt trai đường.

Sau khi ba vương tử cùng đoàn tùy tùng đã cúng dường đức Thế Tôn và từ giã Ngài xong, ba vị đi thẳng đến phụ vương.

Khi trở về, đức Thế Tôn đắc Niết-bàn vô dư y, ba vương tử và người cai quản tỉnh ấy, vị thủ kho báu hoàng gia dần dần theo thời gian đều từ trần và cùng với quần chúng ở đó được tái sanh thiên giới, còn số người bất mãn trong tâm bị tái sanh địa ngục.

Chín mươi hai kiếp trôi qua như vậy, trong lúc hai hạng người trên cứ lần lượt tái sanh từ thiên giới này đến thiên giới khác và từ địa ngục này đến địa ngục khác. Rồi đến hiền kiếp này, vào thời đức Thế Tôn Ca Diếp (Kassapa), đám người bất mãn trong tâm tái sanh vào loài ngạ quỷ.

Vào thời ấy, loài người thường cúng dường vì lợi ích của đám quyến thuộc quá cố của họ và nêu rõ: “Lễ vật này xin dành cho quyến thuộc của chúng tôi”. Do đó, các vong linh được an lạc. Thế rồi, chính các vong linh ấy cũng nhận biết điều này, nên sau khi đến gần đức Phật Ca Diếp, các vị ấy hỏi:
– Bạch Thế Tôn, giờ đây làm thế nào chúng con có thể đạt được an lạc như vầy?

Đức Thế Tôn đáp:
– Hiện nay chư vị chưa có thể đạt được an lạc ấy, nhưng thời gian về sau, sẽ có một đức Phật ở thế gian tên gọi là Go-ta-ma. Vào thời của đức Thế Tôn ấy, sẽ có một vị vua tên là Bình-sa (Bimbisāra), trong chín mươi hai kiếp nữa kể từ đây sẽ là quyến thuộc của chư vị. Vua ấy sẽ dâng lễ cúng dường đức Phật và sẽ hồi hướng công đức ấy đến chư vị, sau đó, chư vị sẽ được an lạc.

Thời bấy giờ, khi điều này được phát biểu, thì cũng như thể ta nói với các vong linh ấy: “Ngày mai chư vị sẽ được an lạc”.

Về sau, khi thời kỳ có đức Phật này đã qua, đức Thế Tôn Go-ta-ma giáng sanh vào cõi đời, ba vương tử cùng với một ngàn người từ thiên giới tái sanh vào quốc độ Ma-kiệt-đà (Magadha) trong các gia đình Bà-la-môn.

Theo thời gian, sau khi từ giã đời thế tục, ba vị trở thành các nhà khổ hạnh bện tóc, trú tại đỉnh núi Ga-ya, người trước kia cai quản tỉnh thành ấy trở thành vua Bình-sa; người thủ khố hoàng gia, con của vị gia chủ, trở thành đại phú trưởng nghiệp đoàn có tên Vi-sa-kha (Visākhā); vợ vị ấy trở thành con gái của một vị đại phú trưởng nghiệp đoàn và được đặt tên Dam-ma-din-na (Dhammadinnā), còn đám quần chúng được tái sanh làm các vị cận thần của vua.

Bấy giờ, đức Thế Tôn Gotama giáng sanh cõi trần, sau bảy tuần Giác Ngộ, Ngài đến Ba-la-nại (Bārāṇasī) chuyển Pháp luân. Ngài giáo hóa ba vị đạo sĩ bện tóc, sau khi Ngài đã khởi đầu giáo hóa năm vị khổ hạnh và thâu nhận cả ngàn đệ tử. Sau đó Ngài đi đến Vương-xá và an trú vua Bình-sa vào Sơ quả Dự Lưu cùng với hơn một vạn Bà-la-môn và cư sĩ ở tại xứ Ương-già (Anga) và Ma-kiệt-đà.

Tuy nhiên các ngạ quỷ ở quanh cung vua suy nghĩ: “Giờ đây nhà vua sẽ làm lễ cúng tế cho chúng ta được hưởng phước”. Trong lúc nhà vua làm tế lễ, nhà vua suy nghĩ: “Ta không biết bây giờ đức Thế Tôn đang trú ở đâu?”. Do vậy, nhà vua không hồi hướng công đức đến ai cả. Vì các ngạ quỷ không nhận được thí vật nào cả, chúng rất thất vọng thốt tiếng kêu thảm thiết mỗi đêm ở hoàng cung.

Rạng ngày, nhà vua hoảng sợ trình đức Thế Tôn về chuyện đã xảy ra và hỏi:
– Bạch Thế Tôn, Ngài đã nghe tiếng nào như vậy chưa? Con băn khoăn không biết việc gì xảy ra với con.

Đức Thế Tôn đáp:
– Thưa Đại vương, xin đừng sợ, không có gì bất thường xảy ra với Đại vương đâu, mà thịnh vượng sẽ đến với Đại vương thôi. Giờ đây, quả thật là quyến thuộc của Đại vương đã tái sanh vào loài ngạ quỷ. Trong suốt một kiếp, chúng đã lang thang khắp nơi và chỉ mong ước điều này: “Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường đức Phật và hồi hướng công đức ấy cho chúng ta”. Hôm qua, khi Đại vương dâng lễ, Đại vương đã không hồi hướng công đức. Do đó, chúng mất hết hy vọng và thốt tiếng kêu la.

Nhà vua hỏi:
– Bạch Thế Tôn, bây giờ làm sao chúng có thể nhận được thí vật?

Đức Phật đáp:
– Thưa Đại vương, quả thật chúng có thể nhận.

Nhà vua nói:
– Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của con vào ngày mai, con sẽ hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng.

Đức Thế Tôn nhận lời. Sau đó, nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: “Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó”, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.

Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: “Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta”. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.

Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.

Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó, liền xuất hiện cho chúng các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Đức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.

Rồi đức Thế Tôn, sau khi thọ thực xong, và được thỉnh cầu, Ngài kể chuyện ngạ quỷ ngoài bức tường thay lời tùy hỷ công đức.

1. Bọn chúng đứng kia, ngoài bức tường,
Những nơi trống trải, ngã tư đường,
Chúng đang đứng ở ngoài song cửa,
Khi đã về nhà tại cố hương.
2. Dù tràn trề ẩm thực liên miên
Đủ loại cứng mềm được dọn lên,
Cũng chẳng có ai cần bọn chúng,
Bởi vì nghiệp chúng đã gây nên.
3. Những người lân mẫn, lắm tình thương
Đúng lúc đem cho đám họ hàng,
Các thức cao lương, đồ ẩm thực,
Với lời cầu nguyện: “Để dành phần
Lễ này cho đám người thân thuộc,
Mong các họ hàng được phước ân”.
4. Và các đám này đã đến đây,
Các vong linh của họ hàng này,
Thảy đều tụ tập đồng vui hưởng,
Các thực phẩm đều phong phú thay.
5. Chúng cầu: “Trường thọ các người thân,
Nhờ các vị, ta được hưởng ân,
Lòng quý trọng ta đà biểu lộ,
Người cho chẳng thiếu quả dành phần”.
6. Chốn kia không có cấy cày đâu,
Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào,
Buôn bán như đây đều chẳng có,
Cũng không đổi vật lấy vàng trao.
7. Bên kia thế giới các vong linh
Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh,
Như nước đổ từ trên núi xuống,
Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình.
8. Giống như tất cả các dòng sông,
Chảy xuống đổ đầy cả đại dương,
Cũng vậy, những gì người bố thí,
Từ đây nuôi sống các vong nhân.
9. Những thân bằng quyến thuộc trong nhà
Trước đã cho ta, giúp đỡ ta,
Mong mọi người ban phần ngạ quỷ,
Nhớ công họ tạo thuở xưa xa.
10. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi,
Thương tiếc, than van chẳng ích gì,
Không lợi gì cho người quá cố,
Khi thân nhân giữ thói lề kia.
11. Song lễ vật này được cúng dâng
Khéo đem an trú ở chư Tăng,
Quả này hiện tại và sau nữa,
Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
12. Đây là nghĩa vụ của thân nhân
Tôn trọng vong linh, đã cúng dâng,
Tăng chúng được thêm nhiều dõng lực,
Người làm công đức lớn vô ngần.

Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người đã đắc Pháp nhãn do tri kiến sanh khởi từ sự kiện tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Tâm họ đầy xúc động vì được tán thán và họ càng nỗ lực tinh cần. Ngày hôm sau đức Thế Tôn cũng dạy chư Thiên và loài Người bài kinh “Ngoài Bức Tường” ấy. Do vậy, suốt bảy ngày đều diễn ra sự đắc Pháp nhãn như trên.

(Nguồn: Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường, Hòa thượng Thích Minh Châu - Việt dịch. Xem: Kinh Tạng Nam Truyền, Tiểu bộ kinh – Tập 3, Ngạ Quỷ Sự, Phẩm Con Rắn, tr. 257-264)

Bài kinh số 5: Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố

Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Trúc Lâm (Veḷuvana). Ở Ba-la-nại (Bārāṇasī) có gia chủ Tiểu chủ ngân khố (Cūḷaseṭṭhi) là người không có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt, không bố thí và khinh thường các thiện sự công đức. Lúc từ trần vị ấy tái sanh giữa loài ngạ quỷ.

Bấy giờ, con gái vị ấy là A-nu-la (Ānulā) đang sống tại nhà chồng ở An-da-ka-vin-da (Andhakavinda). Nàng mong muốn cúng dường các Bà-la-môn để lấy phước đức cho cha, nên đã chuẩn bị cơm và các thực phẩm khác làm lễ vật. Khi ngạ quỷ biết tin này, lòng đầy hy vọng liền bay qua không gian hướng về nơi kia và đến Vương Xá (Rājagaha).

Thời ấy vua A-xà-thế (Ajātasattu) theo sự xúi giục của Đề-bà-đạt-đa (Devadatta), đã giết hại phụ vương. Vì lòng hối hận giày vò và gặp cơn ác mộng, nhà vua không ngủ được. Trong lúc đang đi dạo quanh quẩn trên thượng lầu, nhà vua thấy ngạ quỷ kia đang bay qua không gian, liền hỏi: Ngươi là ai, có phải là đang tu khổ hạnh hay không, mà sao thân thể lại để trần truồng và gầy guộc vậy? Đêm rồi mà ngươi còn đi đâu và tại sao phải đi như vậy? Hãy nói cho Trẫm biết, Trẫm sẽ ban cho ngươi mọi thứ, để ngươi được hưởng cuộc sống giàu sang.

Ngạ quỷ đáp: Trước kia, ta là một phú ông giàu nức tiếng ở thành Ba-la-nại. Ta có nhiều tài sản và rất ham hưởng dục lạc, lại còn làm các việc ác, ta đã không biết bố thí, nên sau khi chết ta bị đọa làm ngạ quỷ. Sự đói khổ làm ta kiệt quệ dần, thân thể ta đau như bị kim châm. Vì thế nên ta phải đi đến bà con để kiếm ăn, song những kẻ thân nhân, vẫn không tin chuyện ta bị đọa làm ngạ quỷ, họ cho rằng, ta là người nhiều ân đức, sau khi chết đã sinh về cõi người rồi, nên chẳng cúng tế cho ta.

Con gái ta khấn với ta rằng: “Con dâng cúng các Bà-la-môn ở An-da-ka (Andhaka), mong muốn cho cha, được hưởng phúc, được no đủ”. Vì vậy mà nay ta đang đi tới ở An-da-ka, để dự tiệc và hưởng phúc phần từ sự cúng lễ hồi hướng của con gái ta.

Vua truyền: “Ngươi hãy đến đó, khi đã nhận xong phần, ngươi trở lại đây, nếu nhà ngươi được hết khổ, hãy trình cho Trẫm biết, sau khi nghe, Trẫm sẽ được tín tâm, nếu ngươi không hết khổ, Trẫm muốn ban ngươi nhiều phước lộc".

“Mong vậy”, quỷ đáp lời vua và bay đi đến phố An-da-ka. Ở An-da-ka, các Bà-la-môn được hưởng đồ dâng cúng đầy đủ thức ăn, vật dụng từ người con gái, nhưng hội chúng Bà-la-môn, đã không sinh được ra công đức phúc báu, để hồi hướng cho ngạ quỷ, nên ngạ quỷ không được lợi ích, vẫn chịu khổ đói như cũ. Sau đó ngạ quỷ quay về thành Vương Xá, một lần nữa yết kiến nhà vua, kể cho nhà vua nghe toàn bộ sự việc. Sau khi nghe nhà vua liền bảo: “Nay ta phải cúng gì cho nhà ngươi? Hãy nói thế nào là cách thức, khiến ngươi hưởng lạc thú giàu sang?”

Ngạ quỷ đáp: "Cúng dường Đức Phật và các Tỷ-kheo các món vật dụng, thức ăn, đồ uống, áo cà-sa, cúng dường lấy phước hồi hướng cho ta hưởng, ta sẽ hân hoan trọn kiếp mà".

Nhà vua nghe xong bảo với ngạ quỷ hãy đến hoàng cung, nhà vua tự tay dâng cúng vật dụng đồ ăn thức uống đến cho Đức Phật và các Tỷ-kheo, rồi nhà vua trình với Đức Phật sự việc đó và đem công đức đã cúng dường tặng cho ngạ quỷ. Sau khi được Đức Phật và các Tỷ-kheo chú nguyện hồi hướng công đức cúng dường từ nhà vua, ngạ quỷ đã được thoát kiếp khổ đói, chuyển thành một vị thần có oai lực.

Vị thần vô cùng hoan hỷ cảm thán rằng: “Ta đã trở thành thần đại lực, không người nào sánh kịp uy danh. Hãy nhìn ta hưởng đại vinh quang, do Đại Vương vừa mới phát ban, khi đã cúng Tăng-già đại lễ, từ đây ta được mãi hân hoan, vì có biết bao nhiêu phước lộc, ta đầy hỷ lạc, hỡi quân vương”.

Tất cả đại chúng nghe Đức Phật kể chuyện xong hoan hỷ đảnh lễ Đức Phật.

(Trích soạn từ: Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố, Hòa thượng Thích Minh Châu - Việt dịch. Xem: Kinh Tạng Nam Truyền, Tiểu bộ kinh – Tập 3, Ngạ Quỷ Sự, Phẩm Ubbarì, tr. 317-320)

Bài kinh số 6: Kinh Chuyện Ông Chủ Thợ Dệt

Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong khi đang trú tại thành Xá Vệ (Sāvatthī).

Lúc ấy, chừng mười Tỷ-kheo, sau khi nhận được đề tài thực hành thiền quán từ bậc Đạo Sư, đang tìm một nơi cư trú. Vì thời kỳ an cư mùa mưa gần kề, chư vị thấy một chỗ tốt đẹp vừa ý ở trong rừng với bóng mát và nước chảy, và chỉ xa làng một khoảng thuận tiện để đi khất thực. Chư vị ngủ qua đêm tại đó và hôm sau vào làng khất thực.

Dân chúng đón mừng chư Tỷ-kheo và cầu xin chư vị vào đây cư trú mùa mưa. Sau đó, vị trưởng nghiệp đoàn thợ dệt cung kính cúng dường hai Tỷ-kheo đủ tứ sự cần thiết, trong khi số đoàn viên thợ dệt khác phục vụ từng vị Tỷ-kheo.

Bấy giờ, vợ người chủ thợ dệt không mộ đạo, không có lòng tin, theo tà kiến và tham lam, không phụng sự Tăng chúng. Sau đó, người chủ này cưới cô em gái bà và cho làm bà chủ nhà. Nàng có lòng tin và nhiệt thành phục vụ chư Tăng.

Tất cả những thợ dệt này cũng tặng mỗi người một chiếc y cho mỗi Tỷ-kheo đang thực hành an cư mùa mưa ở đó.

Thế rồi, người vợ ích kỷ của chủ nghiệp đoàn thợ dệt, với ác tâm buông lời mạ lỵ chồng: “Mong mọi thức uống ăn mà ông cúng các Tỷ-kheo đệ tử chân chánh của đức Phật sẽ trở thành phân dơ và y phục sẽ thành những tấm sắt nóng bỏng trong kiếp sau”.

Khi từ trần, vị chủ nghiệp đoàn thợ dệt tái sanh ở một Thiên cung trong rừng Vin-di-a (Vindhya), làm một vị thần đầy vẻ huy hoàng. Người vợ xan tham ấy tái sanh làm nữ ngạ quỷ ở không xa nơi ông ở. Nữ ngạ quỷ trần truồng, xấu xí, bị đói khát giày vò, và khi đến gần vị địa thần này, nó nói:
– Thưa phu quân, thiếp trần truồng đi lang thang, bị đói khát hành hạ vô cùng khổ cực, xin hãy cho thiếp y phục và thức ăn uống.

Vị thần liền cho nó một số thực phẩm thần tiên của mình, nhưng khi ngạ quỷ vừa cầm lấy, các thứ này lập tức biến thành phân dơ và y phục nó vừa mặc vào liền hóa ra tấm sắt nóng cháy. Ngạ quỷ vừa nôn mửa vừa kêu khóc và đi lang thang trong nỗi thống khổ cùng cực.

Vào thời ấy, một Tỷ-kheo đang đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, cùng với một đoàn lữ hành đông đảo vào rừng Vin-di-a. Sau khi đã du hành ban đêm, đến sáng đoàn lữ hành thấy một nơi đầy bóng mát và nước chảy, họ liền thả đàn bò ra và ngừng lại để nghỉ chân.

Sau đó, vị Tỷ-kheo muốn ở riêng một mình nên đã đi xa một đoạn ngắn, trải chiếc y lên thảm cỏ dày dưới gốc cây và nằm xuống. Thân thể mệt nhọc vì cuộc hành trình ban đêm, vị ấy liền ngủ thiếp đi.

Sau khi đoàn lữ hành đã nghỉ ngơi xong, họ lên đường, nhưng vị Tỳ-kheo ấy chưa dậy. Mãi đến chiều tối vị ấy mới thức giấc, và vì mất bạn đồng hành, vị ấy theo đường nhỏ đi mãi, cuối cùng đến tận nơi cư ngụ của vị thần nói trên.

Khi vị thần thấy vị Tỷ-kheo, liền hóa ra hình người và chào đón vị ấy, đưa vị ấy vào lâu đài của mình và sau khi đã cúng dường dầu xoa chân cùng các lễ vật khác, vị thần đảnh lễ và ngồi xuống.

Vừa lúc ấy nữ ngạ quỷ cũng đến và nói:
– Thưa phu quân, xin hãy cho thiếp thức ăn uống và y phục.

Vị thần cho nó đủ các thứ này, nhưng ngay lúc nó cầm chúng, thì chúng vẫn biến thành phân dơ và tấm sắt nóng cháy như cũ. Khi vị Tỷ-kheo thấy thế, lòng hết sức xúc động và hỏi vị thần qua hai vần kệ:

1. Phân dơ máu mủ hiện lên đầy,
Cho nó, vì sao có quả này?
Hạnh nghiệp gì, người này đã tạo,
Mà nay ăn máu mủ như vầy?

2. Y phục sáng tươi, trắng, mịn màng,
Mới cho ngạ quỷ, dệt bằng lông,
Tức thì chúng hóa thành sắt nóng,
Đã tạo nghiệp gì, ngạ quỷ nương?

Vị thần đáp:
3. Tôn giả, đây là vợ của con,
Bà không bố thí, tánh xan tham,
Khi con cúng các Sa-môn ấy,
Bà phỉ báng con với ác ngôn:

4. “Mong ông ăn uống đám phân dơ,
Nước tiểu, máu tanh, mủ thối tha,
Đây số phận ông về kiếp khác,
Áo quần sẽ hóa sắt nung lò”.
Bởi vì ác nghiệp ngày bà tạo,
Bà phải ăn phân mãi đến giờ.

– Giờ đây có phương tiện gì giải thoát bà khỏi cảnh giới ngạ quỷ?

Tỷ-kheo đáp:
– Nếu ta dâng cúng đức Phật và Thánh chúng hay chỉ một Tỷ-kheo và hồi hướng công đức đến nữ ngạ quỷ, nó sẽ hưởng được phước phần và theo cách ấy nó sẽ thoát khỏi khổ đau.

Khi nghe vậy, vị thần liền cúng vị Tỷ-kheo thực phẩm và hồi hướng công đức cúng dường cho nữ ngạ quỷ. Tức thì nó được đầy đủ, tâm hân hoan hưởng thọ các thực phẩm thần tiên. Sau đó, vị thần trao tận tay vị Tỷ-kheo ấy một đôi thiên y dâng cúng đức Thế Tôn và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ. Ngay sau đó, ngạ quỷ được mặc y phục thần tiên, được cung cấp đủ mọi thứ nó ước mong tương tự như một Thiên nữ cõi trời.

Ngoài ra, vị Tỷ-kheo, nhờ thần lực của vị thần kia, ngay hôm ấy đã đến thành Xá Vệ.

(Nguồn: Việt dịch: Hòa thượng Thích Minh Châu. Kinh Tạng Nam Truyền, Tiểu bộ kinh 3, Ngạ Quỷ Sự, phẩm Con Rắn: Uragavagga, Chuyện ông chủ thợ dệt [Mahàpesakàra], tr. 272)

Bài kinh số 7: Thiên Đế Thích Tự Quy Y Tam Bảo

Thuở xưa, trời Đế Thích bỗng nhiên mất đi năm đức tướng nên tự biết mình sắp mạng chung sẽ tái sanh vào thai một con lừa trong nhà người thợ làm đồ gốm.
Năm đức tướng mất đi là gì?
1 là: Hào quang trên thân mất.
2 là: Hoa trên đầu khô héo.
3 là: Không còn ưa thích chỗ ngồi của mình.
4 là: Mồ hôi nách chảy hôi dơ.
5 là: Bụi bám trên thân.

Đế Thích nhân năm việc này, biết phước mình đã hết nên hết sức lo buồn. Ông nghĩ trong tam giới chỉ có Phật mới cứu độ được khổ ách cho chúng sinh, nên vội tìm đến chỗ Phật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn đang tọa thiền nhập Phổ Quang Tế tam-muội trong thạch thất trên núi Kỳ-xà-quật. Thiên Đế đến nơi gặp Phật liền cúi đầu đảnh lễ, phủ phục sát đất, chí tâm quy mạng Phật Pháp Tăng. Trong khoảng thời gian cúi mình làm lễ, Thiên Đế mạng chung. Thần thức của ông liền nhập vào thai một con lừa trong nhà người thợ đồ gốm. Lúc ấy, lừa mẹ tự dứt đứt dây, chạy loạn vào chỗ đồ gốm chưa nung, làm đổ vỡ rất nhiều. Người chủ giận lắm, bèn xách cây rượt đánh, lừa mẹ nhân đó bị sẩy thai. Thần thức của Thiên Đế liền thoát khỏi thai lừa, nhập lại thân cũ, đầy đủ năm đức tướng như xưa.

Đức Phật ra khỏi tam-muội xong, Ngài liền tán thán:
– Lành thay, này Thiên Đế! Ông có thể đến lúc sắp mạng chung biết quy y Tam bảo, tội nghiệp đã trả xong, không còn thọ khổ báo nữa.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ:
Các hành đều vô thường
Đó là pháp thịnh suy
Đã sinh thì phải tử
Tịch diệt là an vui.
Ví như nhà thợ gốm
Nắn đất làm đồ dùng
Tất cả đều phải hoại
Mạng người cũng vậy thôi!

Đế Thích nghe kệ xong liền biết yếu nghĩa vô thường, thông đạt lẽ biến đổi của tội phước, hiểu rõ cội gốc thịnh suy, tuân theo lý đạo tịch diệt. Ông hoan hỉ phụng trì chính Pháp, đắc quả Tu-đà-hoàn.

(Trích soạn từ: Kinh Pháp cú thí dụ, Quyển Thứ Nhất, Phẩm Vô Thường Thứ 1, Thí dụ 1, tr.25-27, Việt dịch: Thích Minh Quang, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2012)

Sắm lễ cầu siêu cho thai nhi

3.

Cúng Phật

Gia chủ sắm đủ hoặc tùy duyên các loại như:

  • Hương
  • Hoa
  • Trà
  • Quả
  • Thực (Xôi/chè/bát cơm trắng)

Cúng chư Thiên, Thần Linh

Gia chủ sắm tương tự như cúng Phật gồm:

  • Hương
  • Hoa tươi
  • Trà
  • Hoa Quả
  • Thực (Xôi/chè/bát cơm trắng)

Cúng hương linh, gia tiên

Gia chủ sắm đủ hoặc tùy duyên các loại như

  • Hoa tươi
  • Hoa quả
  • 1 mâm cơm chay hoặc mặn. Mâm cơm chay (rau, củ, quả). Mâm cơm mặn (thịt của chúng sinh đã chết, nhưng không do tự tay giết hoặc xui người khác giết hại)

Làm lễ cầu siêu cho vong linh thai nhi

Lưu ý:

  • Với những nghi thức/lễ cúng tu tập dài ngày thì ngày đầu gia chủ sắp lễ cúng theo hướng dẫn như trên, còn các ngày sau tại các nơi thờ lễ cúng là bát cơm trắng, nước trắng hoặc nước chè.
  • Hương nhang: Tùy duyên gia chủ dùng hương trầm hoặc hương cây... Nếu không có hương thì dùng tâm hương.
  • Hoa tươi: Gia chủ chọn các loại hoa có hương thơm (không kiêng về tên hoa hay số lượng hoa).
  • Trà: Nước trà tỏa hương của 6 vị là đắng, cay, mặn, chua, chát, ngọt. Đây là 6 vị nuôi sống tất cả chúng sinh. Nếu không có nước trà thì có thể dùng nước trắng.
  • Hoa quả: Gia chủ chọn mua số lượng quả tùy ý, không kiêng kỵ 2 hay 4 quả. Tốt nhất nên có loại quả chín thọ thực được.
  • Cúng Phật và chư Thiên, chư Thần Linh có thể cúng được bằng thịt tịnh nhục (thịt của chúng sinh đã chết nhưng không do tự tay giết hay xui người khác giết).

Cách bày lễ cầu siêu cho thai nhi

4.

Cách bày 1 lễ

Gia chủ có thể tùy duyên bày tại bàn, trước bát hương thờ Phật (nếu có) hoặc chư Thiên, chư Thần Linh (nếu không có bát hương thờ Phật) hoặc tại bát hương thờ thần linh, gia tiên (nếu chỉ có bát hương thờ gia tiên). Khi cúng thì đọc đầy đủ theo văn khấn.

Cách bày 3 lễ

  • Nếu chưa có bàn thờ: Gia chủ sắp 1 bàn, đặt 3 cốc gạo, sắm 3 lễ bày trước cốc gạo.
  • Nếu có bàn thờ: Nếu chưa có bát hương thì gia chủ đặt cốc gạo vào để làm chỗ cắm hương và bày lễ.

Lưu ý khi cầu siêu cho thai nhi tại nhà

5.

Dù vong linh của thai nhi chưa hình thành thân thể giống như người bình thường nhưng vẫn hiểu và nhận thức được những điều mà cha mẹ làm cho mình. Vì thế khi cúng cầu siêu cho thai nhi tại nhà, bạn cần lưu ý một số điều như sau để tránh "con đỏ" không oán hận và giúp con sớm được siêu thoát.

  • Nên làm lễ cầu siêu càng sớm càng tốt, tránh để lâu dễ khiến cho vong linh thai nhi nổi giận, quay về phá gia đình.
  • Trong lễ cúng, bố mẹ đều phải có mặt để thể hiện sự thành tâm tưởng nhớ, tình yêu thương với linh hồn thai nhi.
  • Không được khóc trong khóa lễ cầu siêu này, cố gắng kiềm chế để vong linh thai nhi được siêu thoát và không lưu luyến lại.
  • Không mua quá nhiều vàng mã, lễ vật để cúng cầu siêu thai nhi.
  • Khi hương nhang cháy được một nửa thì hãy tiến hành hóa vàng mã, tuyệt đối không được tự ý vứt đi lễ vật.
  • Khi cúng xong, bố mẹ nên thường xuyên phóng sinh và làm việc thiện để tích đức và tạo phước cho linh hồn thai nhi cũng như chính mình.

Trên đây là văn khấn cầu siêu cho thai nhi tại nhà đầy đủ mà chúng tôi muốn chia sẻ đến bạn. Cảm ơn bạn đã quan tâm theo dõi bài viết của chúng tôi!

Đừng quên truy cập chuyên mục Rằm tháng 7, lễ Vu Lan trên VnAsk.com để tham khảo thêm nhiều thông tin hữu ích bạn nhé!